Logistics Việt Nam nhìn lại để bước tới

Ngành logistics Việt Nam được hình thành trên cơ sở của nhiều lĩnh vực. Nếu tính từ ngày thành lập Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam (tiền thân của Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam – VLA) thì đến nay ngành logistics Việt Nam đã được 25 năm. Dù đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận song ngành logistics vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức cần giải quyết để hướng tới tương lai trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.

 

Bức tranh nhiều mảnh ghép

 

Trước hết phải khẳng định, logistics là một ngành kinh tế dịch vụ quan trọng mang tính hệ thống liên quan đế nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế khác nhau. Dù nó tương đối phát triển nhưng còn mới mẻ tại Việt Nam, kể cả đến khái niệm cũng còn nhiều cách gọi/hiểu khác nhau. Vì những lý do trên, cho đến thời điểm này, vẫn chưa có một nghiên cứu cụ thể đầy đủ nào về ngành logistics Việt Nam (ngoại trừ một vài nghiên cứu phục vụ đào tạo) và các con số cũng chỉ là ước tính.

 

Thuật ngữ Logistics được chính thức đề cập tại điều 233 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, trong đó nêu rõ: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng, vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.

 

Trên quan điểm học thuật, các nhà nghiên cứu đã đưa ra cách hiểu khác nhau nhưng tựu chung lại, logistics là hoạt động theo chuỗi dịch vụ từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới khi hàng hóa tới tay người tiêu dùng cuối cùng. Nó liên quan trực tiếp đến hoạt động vận tải, giao nhận, kho bãi, các thủ tục dịch vụ hành chính, tư vấn (hải quan, thuế, bảo hiểm…), xuất nhập khẩu – thương mại, kênh phân phối, bán lẻ… Trong lĩnh vực quản lý nhà nước, logistics liên quan đến nhiều bộ ngành như: Công Thương, Giao thông vận tải, Tài chính, Tư pháp, Công nghệ thông tin, Lao động…

 

Xét về mặt pháp lý, cho đến thời điểm này, quy định về kinh doanh dịch vụ logistics mới chỉ có Nghị định số 163/2017/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 30.12.2017 (có hiệu lực từ ngày 20.2.2018), thay thế Nghị định số 140/2007/NĐ-CP ngày 5.9.2007 quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh dịch vụ logistics và giới hạn trách nhiệm đối với thương nhân kinh doanh dịch vụ logistics. Bên canh đó, còn lại nằm rải rác ở những văn bản Luật khác như: Bộ luật dân sự, Luật: doanh nghiệp, đầu tư, cạnh tranh, hải quan, giao thông đường bộ, đường sắt, giao thông thủy nội địa, hàng không dân dụng, hàng hải, bảo hiểm và các điều lệ, văn bản hướng dẫn thi hành.

 

Về hiệp hội chuyên ngành liên quan đến dịch vụ logistics cũng còn khá nhiều, chưa có sự thống nhất hoặc sự liên kết chặt chẽ dẫn đến hiệu quả hoạt động đôi khi còn hạn chế.

 

Những thành quả

 

Trên cơ sở nghiên cứu và hiểu biết của người viết, ở góc độ kinh tế, dịch vụ logistics với nghĩa “hậu cần”, “giao nhận hàng hóa” ở Việt Nam đã hình thành khá lâu và có đóng góp quan trọng cho nền kinh tế. Cùng với quá trình mở cửa từ năm 1994 đến nay, đặc biệt sau khi Việt Nam tham gia WTO năm 2007, tốc độ tăng trưởng của ngành logistics nói chung luôn duy trì ở mức cao với 2 con số.

 

Hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ, cảng hàng không, cảng biển, kho bãi, hạ tầng thương mại, trung tâm logistics không ngừng được mở rộng với quy mô lớn, rộng khắp. Cùng với đó, các dịch vụ đi kèm đã và đang đáp ứng kịp thời những yêu cầu hết sức đa dạng của thị trường. Các cải cách về thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh ở tất cả các lĩnh vực đã được đẩy mạnh; môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi; các kết quả từ hợp tác kinh tế quốc tế… đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy xuất khẩu; hình thành nên các chuỗi cung ứng logistics toàn diện, đa dạng và ngày càng chuyên sâu hơn, góp phần quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế.

 

Cụ thể, theo báo cáo chuyên ngành logistics của Bộ Công Thương, đến cuối năm 2017, cả nước đã có 13 tuyến đường cao tốc, 146 tuyến đường quốc lộ chính với tổng chiều dài là 23.816km; 3.161km đường sắt; 44 cảng biển; 42 tuyến luồng hàng hải công cộng vào cảng quốc gia với tổng chiều dài là 935,9km và 10 luồng vào cảng chuyên dùng có khả năng tiếp nhận tàu hàng rời đến 200.000 DWT; 45 tuyến đường thủy nội địa quốc gia với tổng chiều dài khoảng 7.075km; 21 cảng hàng không đang khai thác. Lượng hàng hóa luân chuyển ngày càng tăng.

 

Theo Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), tốc độ phát triển của ngành logistics tại Việt Nam những năm gần đây đạt khoảng 14% – 16%, có quy mô khoảng 40 – 42 tỷ USD/năm. Tham gia thị trường logistics gồm có khoảng 3.000 doanh nghiệp nội và còn khoảng có 25 tập đoàn giao nhận hàng đầu thế giới kinh doanh dưới nhiều hình thức.

 

Các thủ tục, thời gian thông quan đối với hàng xuất khẩu cũng đã cải thiện đáng kể. Năm 2017 thời gian thông quan hàng xuất khẩu là 105 giờ, hàng nhập khẩu là 132 giờ. Việt Nam cũng đang đứng thứ 39/160 nước về chỉ số hoạt động logistics và đứng thứ 3 trong ASEAN chỉ sau Singapore và Thái Lan.

 

Triển vọng và định hướng

 

Mặc dù đã đạt được những kết quả quan trọng, nhưng đến nay năng lực cạnh tranh của ngành logistics Việt Nam vẫn còn hạn chế bởi cơ sở hạ tầng cả phần cứng và phần mềm cũng như công nghệ quản lý và môi trường chính sách, quy mô và năng lực của doanh nghiệp, nguồn nhân lực… vẫn cần được đẩy mạnh hơn nữa để bắt kịp trình độ phát triển của các nước đối tác và đối thủ cạnh tranh trong khu vực.

 

Theo dự báo, quy mô thị trường logistics toàn cầu sẽ tăng trưởng trung bình khoảng 6,54%/năm trong giai đoạn năm 2017 – 2020, và đạt 15,5 nghìn tỷ USD vào năm 2024, gần gấp đôi so với mức 8,2 nghìn tỷ USD vào năm 2016. Đặc biệt, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng 4.0, các xu hướng, công nghệ mới hình thành và phát triển hay thương mại điện tử đang và sẽ là nhân tố dẫn dắt chính sự phát triển của logistics toàn cầu trong thời gian tới với mức tăng trưởng cao, nhất là ở các nước châu Á.

 

Điều đáng mừng cho logistics Việt Nam là đã được Chính phủ, các bộ ngành và địa phương quan tâm, công tác truyền thông tiếp tục được đẩy mạnh. Cho đến nay, khung pháp lý và chính sách liên quan đến logistics đang dần hoàn thiện. Chúng ta cũng đã có quy hoạch, xây dựng kế hoạch hành động trong Quyết định số 200/QĐ-TTg với 60 nhiệm vụ thuộc 6 nhóm, bao gồm: Hoàn thiện chính sách, pháp luật về dịch vụ logistics; Hoàn thiện kết cấu hạ tầng logistics; Nâng cao năng lực doanh nghiệp và chất lượng dịch vụ; Phát triển thị trường dịch vụ logistics; Đào tạo, nâng cao nhận thức và chất lượng nguồn nhân lực; và các nhiệm vụ khác. Trong đó, Bộ Công Thương, Bộ Giao thông vận tải, Hiệp hội VLA là những đơn vị được giao chủ trì nhiều nhiệm vụ nhất.

 

Mục tiêu của kế hoạch trên là đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 8% – 10%, tốc độ tăng trưởng dịch vụ đạt 15% – 20%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50% – 60%, chi phí logistics giảm xuống tương đương 16% – 20% GDP, xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) trên thế giới đạt từ 50 trở lên.

 

Các chuyên gia cho rằng để đạt được kế hoạch đề ra, các cơ quan quản lý nhà nước, hiệp hội, doanh nghiệp, địa phương cần tập trung triển khai đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ nêu trong Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/02/2017 của Thủ tướng Chính phủ: Đẩy mạnh cải cách hành chính, cắt bỏ hoặc đơn giản hóa các thủ tục hành chính liên quan đến logistics, đặc biệt là thủ tục kiểm tra chuyên ngành; Đẩy nhanh tiến độ triển khai các công trình hạ tầng logistics trọng điểm; Lồng ghép các hoạt động hội nhập và hợp tác trong khu vực với việc mở cửa thị trường, tiếp cận nguồn hàng từ các nước láng giềng, đồng thời với việc nâng cao chất lượng và chuẩn hóa dịch vụ logistics; Mở rộng mạng lưới đào tạo về logistics, đẩy mạnh tuyên truyền về logistics cho các cấp, các ngành và các doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh; Tiếp tục hoàn thiện khung thể chế và bộ máy quản lý nhà nước hỗ trợ logistics phát triển; Đa dạng hóa nguồn vốn phát triển hạ tầng logistics dưới các hình thức khác nhau; Tăng cường liên kết để cùng phát triển, tạo dựng thương hiệu logistics Việt Nam.

 

Nguồn: Vinalines

MFN
VLA
C5C
NAMSUNG
VINALINES
OOCL
HANJIN SHIPPING
PIL
CMA CGM
1
5
6
7
8
9
10
4
3
2