Đây là báo cáo đầu tiên của Bộ Công Thương về các DN logistics, phục vụ cuộc họp của Ủy ban quốc gia về Cơ chế một cửa ASEAN, một cửa quốc gia, tạo thuận lợi thương mại, diễn ra chiều 31/7, được Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ, Chủ tịch Ủy ban đánh giá cao.
Trước đó, vào đầu tháng 6, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 684/QĐ-TTg giao Bộ Công Thương làm đầu mối giúp việc triển khai nhiệm vụ điều phối và phát triển logistics quốc gia theo các hiệp định mà Việt Nam ký kết với WTO, các nghị định, nghị quyết của Chính phủ, các quyết định và chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực này được ban hành trước đó.
Báo cáo dẫn số liệu từ Hiệp hội DN dịch vụ logistics Việt Nam (VLA) cho biết, cùng với tốc độ tăng trưởng của GDP, giá trị sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất nhập khẩu, trị giá bán lẻ hàng hóa và dịch vụ và hạ tầng giao thông, trong thời gian vừa qua, dịch vụ logistics của Việt Nam có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, đạt 12-14%; tỷ lệ DN thuê ngoài dịch vụ logistics đạt khoảng 60-70%, đóng góp khoảng 4-5% GDP.
Báo cáo của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2018 cho thấy, Chỉ số năng lực hoạt động logistics (LPI) của Việt Nam xếp hạng 39/160 nước tham gia nghiên cứu, tăng 25 bậc so với năm 2016 và vươn lên đứng thứ 3 trong các nước ASEAN. Việt Nam cũng là nước xếp hạng ở nhóm đầu trong các thị trường mới nổi. Đây là kết quả tốt nhất của Việt Nam kể từ khi WB thực hiện việc xếp hạng LPI kể từ năm 2007 đến nay.
Hiện cả nước có khoảng 4.000 DN hoạt động trong lĩnh vực logistics và 70% số đó tập trung ở TPHCM và các tỉnh lân cận. Các DN logistics Việt Nam chủ yếu ở quy mô nhỏ: 90% DN khi đăng ký có vốn dưới 10 tỷ đồng (thấp hơn mức vốn đăng ký bình quân của DN cả nước), 1% có mức vốn trên 100 tỷ đồng, 1% có mức vốn từ 50-100 tỷ đồng, 3% có mức vốn từ 20-50 tỷ đồng và 5% có mức vốn từ 10-20 tỷ đồng. Có tới 2.000 DN logistics là công ty TNHH MTV, cũng cho thấy quy mô nhỏ bé.
Với 4.000 DN, nhưng chỉ có gần 400 DN tham gia VLA. Theo thống kê của VLA, những DN hội viên đại diện trên 60% thị phần cả nước, bao gồm nhiều DN hàng đầu trong ngành. Điều này cho thấy, DN lớn có thị phần tốt có xu hướng chú trọng tới liên kết mạng lưới hơn các DN nhỏ.
Các DN logistics hàng đầu hiện nay là SNP, Gemadept, Transimex, IndoTrans, TBS Logistics, Tân Cảng Sài Gòn, Delta, U&I Logistics, Sotrans, Minh Phương Logistics,... đều là hội viên của VLA, cung cấp dịch vụ tới tất cả các thị trường chiến lược của Việt Nam.
Việt Nam có khoảng 30 DN cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia. Để mở rộng quy mô, một số DN Việt Nam đã tăng cường liên doanh, liên kết giữa các DN trong nước và hợp tác với các công ty logistics quốc tế.
Bên cạnh việc đầu tư phát triển các trung tâm logistics, hệ thống kho tổng hợp, kho lạnh và kho mát, một số DN tiến hành các hoạt động sáp nhập và mua lại (M&A) để tăng vốn hoặc thu hút nguồn vốn nước ngoài, cùng với đó là kinh nghiệm quản trị và nguồn khách hàng quốc tế để vươn ra các thị trường bên ngoài Việt Nam. Một số DN bước đầu tìm cách đầu tư ra ngước ngoài thông qua việc mở văn phòng đại diện ở các nước Lào, Campuchia, Myanmar, Ấn Độ, thành lập liên doanh kinh doanh ICD tại Bỉ.
Cũng theo báo cáo, nhân lực logistics vẫn đang là khâu thiếu và yếu, nhất là về ngoại ngữ, năng lực quản lý khi giai đoạn 2015-2030, cả nước cần tới 200.000 nhân sự. Hiện nay, nhân sự logistics được đào tạo ở 3 cấp độ đại học, cao đẳng và trung cấp, nhưng chủ yếu là cao đẳng và trung cấp với quy mô hàng năm từ 3.500-5.000 học viên và khoảng 10.000-15.000 lượt người ở các trình độ sơ cấp và đào tạo ngắn hạn dưới 1 tháng.
Việc ứng dụng CNTT trong logistics của DN hiện còn ở mức rất khiêm tốn, chủ yếu tập trung phục vụ khai báo hải quan và theo dõi, giám sát phương tiện. Tuy nhiên, các DN, trung tâm logistics đang nỗ lực để đổi mới hoạt động.
Ngoài các chức năng chính gồm bảo quản, dán nhãn, đóng gói, chia tách, xử lý hàng hóa, chuẩn bị đơn đặt hàng, các trung tâm logistics đang chuyển sang ứng dụng CNTT trong quản lý hàng hóa, theo dõi, truy xuất vị trí. Một số trung tâm logistics chuyên dùng được tự động hóa gần như hoàn toàn như các trung tâm logistics của Samsung, Unilever, P&G, Vinamilk, Masan. Các trung tâm logistics lớn hiện nay tập trung ở khu vực Hải Phòng, Đồng Nai và Bình Dương, áp dụng hệ thống quản lý hiện đại thuộc các DN Gemadept, TBS, Tân Cảng Sài Gòn, Transimex, Mapletree, Damco, DHL, Kerry Express, Viettel Post.
Một điểm đáng lưu ý là cả nước có 45 trung tâm logistics tại 9 tỉnh, thành phố, nhưng đa phần là các trung tâm logistics hạng II (cấp vùng), chưa phát triển đúng định hướng tại Quyết định số 1012/QĐ-TTg ban hành năm 2015 là phát triển các trung tâm cấp I (cấp quốc gia) để trên cơ sở đó phát triển các trung tâm hạng II.
Kết nối giữa các phương thức vận tải đang là hạn chế lớn, làm chi phí logistics còn cao, thể hiện rõ trên các hành lang vận tải chính. Trọng tâm là vấn đề kết nối đường sắt, đường thuỷ nội địa với cảng biển, với các trung tâm đô thị, các trung tâm sản xuất-tiêu thụ hàng hoá chính. Hệ thống đường bộ có nhiều cải tiến, tuy nhiên số lượng phương tiện chạy rỗng còn nhiều làm giảm hiệu suất khai thác, tăng chi phí.
Đánh giá cao Báo cáo của Bộ Công Thương đã góp phần giúp Chính phủ nhận định tổng quan lĩnh vực logistics tại Việt Nam hiện nay, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ cho biết, đây là những dữ liệu quan trọng để phát triển ngành này, góp phần thúc đẩy tạo thuận lợi thương mại ở trong nước cũng như xuất khẩu hàng hoá.
Đề cập tới con số chi phí logistics của DN chiếm tới 20% GDP, nhưng đóng góp của ngành logistics vào GDP chỉ chiếm 4-5%, Phó Thủ tướng cho rằng phải tăng cường đóng góp của ngành này và giảm chi phí logistics của DN.
Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương nghiên cứu đánh giá tổng thể việc xây dựng Chương trình mục tiêu phát triển dịch vụ logistics, nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ này đến năm 2025, đóng góp từ 8-10% GDP, tốc độ tăng trưởng hàng năm từ 14-20%, thứ hạng đứng thứ 50 trong chỉ số cạnh tranh của thế giới trở lên.
Theo Thành Chung/Baochinhphu.vn